Định nghĩa Chơi - Kim Định

Đa Minh Lương Kim Định
(trích từ Phong Thái An Vi)



ĐỊNH NGHĨA CHƠI

1. Ta thường hiểu chơi là không làm gì. Đó là nghĩa thấp nhất. Chơi cũng hiểu là giải trí để làm việc tốt hơn. Nghĩa này cũng còn tiêu cực tuy nhiên đã cần thiết vì nó làm nên nhịp âm đối với làm là nhịp dương. Sự thực chơi có nghĩa bao la và rất tích cực gồm cả văn hóa và siêu linh. Ta quen nói chơi đàn, chơi nhạc, chơi cờ, chơi chữ, nó chơi tôi...những chữ chơi đó nói lên sự bao la lớn rộng cũng như nét vi tế của chữ chơi, mà sau đây ta sẽ xét qua.

2. Trước hết chơi là một biểu lộ của sự sống có tính cách nội khởi, tự động, phổ biến. Chơi không những có ở nơi người, chơi còn có cả trong con vật. Hãy xem quanh ta nào mèo, nào chó, ôi thôi nó chơi, nó giỡn tưng bừng.Bò, heo, gà, vịt đều chơi cả. Thế là ta biết chơi gắn liền với sống, sống càng mạnh chơi càng nhiều.

3. Chơi còn là một biểu lộ rất sớm; nơi con người nó xuất hiện ít tháng sau khi sinh. Chơi choán trọn mấy năm đầu, chưa làm cái chi khác nhưng đã có chăng chỉ có chơi. Chơi chiếm hầu trọn quãng sống đầy hạnh phúc nhất, đầy tăng trưởng nhất.

4. Trong loài người chơi cũng xuất hiện trước cả văn hóa. Văn hóa chỉ đến sau để uốn nắn xếp đặt đặng "in dấu" con người vào sự chơi đã có trước, nhờ đó chơi trở nên một biểu lộ của văn hóa. Lịch sử văn hóa Việt Nam mở đầu bằng hình ảnh cuộc chơi tưng bừng, bao la như vũ trụ: gồm cả thiên địa vạn vật cùng chơi như được ghi trên mặt trống. Suy xét cho thâm sâu ta sẽ thấy rằng đó phải là mẫu mực của mọi nền văn hóa chính tông, tức văn hóa phải mở đầu bằng chơi, kết hậu cũng bằng chơi: sống như chơi, chết cũng như chơi. Với con người chơi là cứu cánh ; cho nên hầu hết văn hóa loài người đều có quan niệm gần hay xa với câu "hóa nhi đa hí lộng: trẻ tạo hóa chơi rất nhiều: đa hí lộng mà ta sẽ thấy đó là quan niệm giải nghĩa ổn hơn hết cuộc sinh sinh hóa hóa bất tận của vũ trụ càn khôn. Như vậy chơi là một tác động cao nhất của cuộc sống, có tính cách linh thiêng hơn hết. Chơi không bị ràng buộc vào những mục đích bé nhỏ, những đối tượng nhất định: chơi là chơi. Tạo hóa không làm chi khác mà chỉ có chơi: hóa nhi đa hí lộng, chơi như trẻ con chơi: không nhằm đạt cái chi bên ngoài. Cho nên ở đợt cao nhất, chơi không nhằm mục tiêu nào khác ngoài chơi, nghĩa là nó không cần hướng đến mục đích ngoài nó, nó là một động tác tự tại, không cần động cơ ngoài thúc đẩy. Chơi được như vậy có nghĩa là đã sống được cuộc sống no tròn, không phải tìm kiếm chi khác nữa: chơi đã có đủ hết nơi nó.

5. Bởi vậy chơi được xem là sự tràn bờ của sức sống và hạnh phúc.

Chính vì thế mà trẻ con chơi nhiều hơn người lớn. Sinh lực chúng còn đang trong đà tăng vọt, tràn ra khỏi biên cương cơ phận: thân xác trở nên quá hẹp không đủ chỗ cho sức sống vẫy vùng nên phải mở mang thêm bờ cõi thân thể bằng chơi.

Chính sự tràn bờ, chính sự tự tại không nhằm mục đích nọ đưa chơi vào cõi thần tiên vì: Thần vô phương, chơi cũng không bị trói buộc vào biên cương hay một mục đích nhất định, nên nó giáp giới với vô biên. Vô biên chính là Thần. Chơi cũng chính là thần vì nó không có mốc giới, nó biểu lộ những nét linh thiêng của chân, thiện, mỹ như sức căng thẳng, sự năng động, nhịp nhàng, hòa hợp, cân đối, đa diện, là những nét vi tế của sự đẹp.

6. Thời cổ xưa chơi thường nằm liền ngõ với tế tự, một tác động nền tảng hơn hết của con người, đặt con người vào mối liên hệ chặt chẽ với linh thiêng, nên là một tác động cao cả hơn hết, vì thiết lập liên lạc với vô biên, tức với cái chi không giới mốc, không bị hạn cục. Ở buổi bình minh nhân loại, ta thấy chơi đi cùng tế tự là do lẽ đó.. Thời ấy các cuộc tế tự đều có múa, có ca, bởi ca múa chính là cuộc chơi đã được cơ cấu hóa. Đấy là lý do tại sao nhiều triết gia đã đồng hóa việc chơi với tế tự. Hình ảnh trên mặt trống đồng muốn nói là cuộc tế tự hay một cuộc chơi cũng được, vì tính chất bao la phổ biến của chơi và tế tự như nhau, đích cùng cũng như nhau: đều đặt con người liên hệ với vũ trụ tức là với linh thiêng. Cho nên trong các xã hội cổ đại có vô số cuộc chơi đặt liền với các cuộc lễ. Nhiều nhất và giữ được lâu hơn hết là nơi Việt tộc: mở đầu là tế tự, tiếp nối là chơi. Nói được các cuộc chơi đó nhất là các hội Xuân chính là sự kéo dài của cuộc tế tự. Ông Paul Mus gọi dân Việt là một dân gồm toàn những tay chơi: un peuple de joueurs. Đó là câu nói khen ngợi cùng cực; mọi việc đã được đẩy đến độ chơi, có nghĩa là đã đẩy đến độ tế tự: il n' agit pas, il officie: ông nói: "họ không còn làm nữa, họ tế tự". Paul Mus nói thế vì tính cách thành khẩn của việc, nó hút trọn bầu linh lực không để vương vãi đi đâu chút nào.

7. Trên đã nói chơi là tác động không nhằm mục tiêu. Tại sao có chỗ lại nói đến mục tiêu, nói đến đích cùng của chơi. Thưa đích cùng là nối với vô biên thì cũng như không có mục tiêu, tức tiêu điểm vượt ra khỏi tai mắt, không còn gọi là mục đích được nữa. Vì mục đích là cái đích được mắt nhắm tới. Còn đây tận cùng là cái chi vô biên nên vượt bờ cõi của tai mắt, của giác quan, và đó là bản chất của cuộc chơi trung thực, nó cũng giống tế tự mà Việt Nho đã nói là "tế tự bất kỳ" tế tự trung thực không xin gì hết (bất kỳ) chỉ cốt cho lòng bay lên. Vì vậy xin xỏ không còn là tế trung thực. Xin cái nọ cầu cái kia là tự cột mình vào những cái bé nho có mốc giới hạn hẹp, đang khi tế tự chân thực phải được như chơi chân thực, là phải nâng tâm hồn lên không cho phép nhằm mục tiêu gì khác ngoài mình, có vậy mới giải thoát được tâm hồn ra khỏi sự thằng thúc của những cái bé nhỏ để hồn bay lượn trong cõi vô biên; cứu cánh cuộc đời là đó. Vậy nên khi nói phải sống cái sống như chơi cũng chính là nói phải biến cuộc sống trở nên một cuộc tế tự thường xuyên và trường kỳ. Tuy nhiên những câu nói đó rất dễ gây hiểu lầm là vì tất cả sống, tế, chơi đều đã đi trật khỏi đường thông với vô biên để bị mắc kẹt vào những ngõ bí không lối thoát. Vì thế cần gỡ lần ra khỏi sự rối ren nọ, cần nghiên cứu riêng về sự trật đường của cuộc chơi. Đầu trước hết là sự phá rối cuộc chơi.

NHỮNG KẺ PHÁ RỐI CUỘC CHƠI.

A. NGUỒN GỐC TRIẾT LÝ LAO ĐỘNG.

1. Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè ..

Đó là câu đã làm biết bao người Việt trước đây bực dọc thấy quá nhiều thì giờ bị tiêu phí vào việc ăn chơi hội hè, đang khi các nước văn minh giàu hơn mình gấp cả trăm lần còn làm việc trối chết, tết cũng chỉ có một hai ngày, thế mà dân mình túng rớt cục mồng tơi đòi ăn tết đứt đuôi đi một tháng. Vậy chưa cho là đủ, còn đòi thêm hai tháng nữa mới kinh khủng. Mất nước cũng đáng kiếp.

2. Thế là từ đấy nổi lên cuộc giương cờ trống đi rước văn minh Tây phương cùng với triết lý lao động của họ đưa về cho ngự trị trong nước; hậu quả là ba tháng tết rút lại còn có ba ngày, mà nhiều khi còn bị xén bớt. Liệu rồi với đà làm việc đó chúng ta có đuổi kịp Tây Âu chăng? Để tìm câu đáp hôm nay chúng ta đem vấn đề ra cứu xét: tại sao lại có cái vụ trái khoáy như trên: nước túng mà tết lại dài với một chuỗi hội hè đình đám.

3. Trước hết nên nhớ lại Tây Âu mới làm việc quần quật từ lúc có khoa học kỹ thuật. Còn triết lý lao động lại đến muộn nữa, mới chừng một thế kỷ nay. Từ đấy mới có đảng lao động, rồi lễ lao động và lao động được đề cao cùng cực, đến độ giai cấp lao động được trao phó cho sứ mạng cứu thế, nên đảng lao động đã tận tình thực thi sứ mạng đến độ chỉ còn để lại có việc thuộc chân tay như sản xuất đồ vật , có vậy mới đáng kể là lao động. Văn học nghệ thuật muốn được tồn tại cũng phải hô hào cổ võ cho việc thi đua sản xuất, ca ngợi lao động mới xong. Ngoài ra ai còn dám nói tới tình người tất bị lên án là phản cách mạng, phản sản xuất.
4. Đó là sự quá trớn dễ dàng nhận thấy, nhưng có một điều không mấy ai thấy là cái lý do gây nên phong trào làm việc quần quật nọ. Vậy nguyên ủy sâu xa ở tại triết lý cổ điển đã xao lãng việc đề cao lao động thì chớ, lại còn coi việc làm là hình phạt hay như cái chi hèn hạ, chỉ đáng dành cho nô lệ (gọi là servile). Aristotle cho việc lao tác bất xứng với người tự do. Cũng vì đó triết lý đã không tìm cách phá chế độ nô lệ, còn bào chữa cho là cần thiết để xã hội tồn tại. Vì xã hội mà thiếu lao động thì sống sao nổi, mà ai lao động cho đây nếu không có nô lệ. Đấy quả là một tang chứng về vụ triết học đã phản bội con người vốn mang trong xương tủy tính chất tác hành. Vậy mà mãi đến đời nay các triết học gia chưa hẳn rút chân ra khỏi câu tuyên bố đầy ô nhục nọ của Plato, Aristotle. Đó là dấu chứng tỏ triết học đã đặt hướng lầm, nên không thấy rất nhiều điều thiết yếu cho con người trong đó có sự coi thường lao động, vì thế trải qua bao đời, lao động vẫn bị khinh rẻ, đó là lý do sâu xa nhất đã gây nên cuộc phản động đề cao lao động như vừa nói trên.

5. Nhưng rồi "mạnh chống mạnh chấp"; cái gì do phản động thế nào cũng gây nên sự mất quân bình là cái sẽ dẫn đến chỗ cắt hoạn con người, bắt con người làm quá nhiều về chân tay lao lực, không để thì giờ phát triển những khả năng về tình và chí còn cần thiết gấp bội cho sự lớn mạnh của con người trung thực. Bởi nhà nước chiếm đoạt hết quyền điều lý thì đã là tước đoạt quyền định đoạn phác họa chương trình của tư nhân cả đến những chi tiết lặt vặt cũng xen vào với chính sách "làm hết" (tout faire) biến cá nhân thành cái ruột đinh ốc, một cái bánh xe chỉ biết máy động do sức đẩy bên ngoài. Đã vậy mục tiêu cũng bị đặt bên ngoài con người như làm để có thêm tiền, làm để cho nước giầu mạnh, hay đi giải phóng chứ không chú ý đến nhu yếu con người thực đang sống ở đây và bây giờ. Đó là những cái bên ngoài con người gọi là thành công được nhằm như cứu cánh, không còn tiêu điểm để biết đến đâu là đủ, là "tri túc". Thế là biến con người thành loài kiến, suốt đời phải tha mồi để chất đống, tha hoài tha hủy, không bao giờ được ngửa mặt lên ngắm trời đất với muôn hoa đua nở chứ đừng nói đến việc siêu lên cõi tâm linh là chiều kích đích thực của của con người. Muốn thế ta cần phải đi tìm một nền triết khác thay vào cả hai nền triết Tây Âu; cổ điển thì khinh việc, còn nay chỉ biết có việc sản xuất. Cần một nền triết lý cân đối đầy đủ cho con người lưỡng thê.

B. HAM CHƠI VÌ CÓ TRIẾT LÝ TÁC HÀNH.

6. Điều đó chỉ có thể tìm ra được trong những miền có triết lý hành động từ đầu, tự cơ cấu. Và đó là trường hợp Việt Nho khi định nghĩa người như những tác nhân, xuất hiện theo cung cách của Bàn Cổ, cái gì cũng tự làm lấy hết; từ việc xếp đặt trời đất, âm dương, cho đến núi sông, cả con người nữa cũng tự làm ra, sau này con cháu đều bắt chước. Ngay đàn bà mà có thèm kể đến phận liễu yếu đào tơ đâu – cũng ra tay dọc ngang trời đất, cũng dám đội đá vá trời ! Dễ có mấy tay !

7. Nữ nhi mà làm những việc có tầm vóc vũ trụ! Chả trách sau này sinh ra toàn những tay thánh tổ của tác hành như ba vị thánh quan thầy lao động của Việt Nho cổ đại coi là Uyên Công, Mẫn Công, Đạt Công (được thờ ở đền Đào Xá Phú Thọ). Rồi đến trai thì hùng đã đành, mà cả gái cũng đảm nữa, nên khi lấy chồng thì kêu là đi "gánh vác", hiểu là "đi gánh giang sơn nhà chồng". Lại nổi máu con cháu Nữ Oa lên nữa rồi.

Người ta gánh cá gánh rau thôi chứ, đây đòi gánh sông gánh núi, tức những công việc có tầm vóc vũ trụ vậy. Nói theo công thức của Nho thì ba vị công trên là Tam Tài.

8. Chữ Tài viết bằng bộ thủ (tài gãy ) hàm ý động tự. Thế có nghĩa là con người được quan niệm như một tác nhân, mình đầy nhóc những động tự là động tự. Trên đời này không thể tìm đâu được một triết lý hành động uyên nguyên đồ sộ đến như thế. Theo triết lý ấy chỉ có việc làm mới có giá trị, nên các vua huyền sử của Việt Nho không xuất hiện từ dòng máu như sinh ra bởi thần thánh nào, mà chỉ lấy toàn tên từ một thành tựu, một cuộc phát minh nào đó:

Toại nhân phát minh ra lửa
Phục Hi thuần phục súc vật
Thần Nông thuần phục lúa
Hùng Vương thuần phục tinh thần

Bà Nành, Bà Giâu là những người đã thuần phục cây đỗ nành, cây dâu...

Kể ra chẳng xiết. Rõ rệt là không hề có một dấu hiệu nào coi khinh việc làm, trái lại việc làm được đề cao từ trong xương tủy, đến nỗi kẻ sĩ thường mang tiếng là dài lưng tốn vải, vậy mà khi chết cũng phải chôn theo một biểu hiệu việc làm đó là lưỡi cày. Ông vua cũng phải đi cày, ít ra một cách tượng trưng; cày trên ruộng tịch điền ba luống. Vua Lê Hoàn tự cầy cấy trọn ruộng tịch điền...

9. Tóm lại không những cơ cấu Việt Nho là tác hành, đến nỗi đạo được gọi là Ngũ Hành, mà cả đến sơ nguyên tượng, và điển hình cũng là những tác nhân, những ông chống trời, ném cát, tát biển tức những việc có tầm vóc vũ trụ.

Cho nên nếu hiểu thấu được triết lý tác hành chân thực thì phải nhằm phát triển con người đến toàn diện mênh mông như vũ trụ. Nay đòi giản lược vào những vật hữu hình, độc chuyên có đợt sản xuất. Đó là san phẳng theo nguyên lý đồng nhất (A=A) giản lược con người vào nhu yếu duy nhất là ăn.

Không biết chi tới "ở đời" có chiều kích vô biên rộng như vũ trụ, khiến con người có thể tham dự cùng trời đất. Đó là chỗ giải nghĩa những cuộc hội hè đình đám mà ta cần tìm hiểu thêm.


C.TẾT LÀ GÌ?

10. Muốn hiểu được tầm quan trọng của Tết cần nhớ lại với Việt Nho thì siêu hình là thời gian và tình cảm. Cả hai đều vô hình nhưng lại có thực; đó chính là chất liệu làm nên con người, tràn ngập toàn thể con người dưới tên bao quát là tình, tâm tình. Đó là then chốt của con người, con người cần phải " tùy thời" . Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai", vì tùy thời cũng chính là sống theo tình theo tính, tức là đạo. Đó là những việc không thể bỏ dù một giây. Nhưng có những lúc cần trọng thể hóa: như những thời điểm khởi đầu mùa, đầu năm Nho gọi là tiết, ta đọc là tết. Đó là ngành ngọn của chữ thời.

Còn ngành tình thì ta thấy Nữ thần mộc săn sóc cho mối tình nảy nở qua thể chế gia đình: rồi nhiều gia đình làm nên làng xã. Hàng ngày sống tình gia đình, nhưng lâu lâu vào những khởi điểm cũng cần sống theo chiều kích toàn thể của mình, cái sống của công thể. Sống đầy đủ nhất tự ăn uống, chơi đùa, cho tới ca hát, tế tự. Đấy là lý do thâm sâu của các cuộc hội hè đình đám kéo dài: đó là sự tác động của một nền siêu hình trung thực hơn hết, đáng được coi là khôn sáng thông giỏi hơn cả. Vua Hùng Vương chỉ truyền ngôi cho công tử Lang Liêu vì đã biết trình bầy việc ăn uống ngày tết như hình trời đất, và dân chúng đã thấu hiểu triết lý đó nên kêu là vua Tiết Liệu: tiếng này vừa có nghĩa món ăn ngày tết, mà cũng hàm ý biết lo liệu đúng tiết điệu của đất, trời, người.

Như thế, tết hay hội hè đình đám chính là những phút linh thiêng mà con người dùng để sống hòa điệu với nhịp vũ trụ của hóa công được quan niệm như trẻ thơ ca múa "hóa nhi đa hí lộng", để cho đúng câu "thiên nhân tương dữ" trời người cùng tham dự. Tham dự chi? Thưa cụ thể là tham dự cùng một tiết nhịp. Vì thế tết cũng kêu là tiết: có bao nhiêu tết là có bấy nhiêu tiết. Mỗi tết trở nên cơ hội cho con người sống đời sống của Đại Ngã Tâm Linh, sống hòa mình vào nhịp vũ trụ, để con người sống những giây phút an hành vượt hẳn ra ngoài vòng danh lợi của hai đợt cưỡng hành lợi hành. Chỉ ở đợt an hành con người mới dễ sống thanh thản trong bầu khí bao la của trời cùng đất.


11. Đây là lý do sâu thẳm tại sao tết với những hội hè kèm theo được coi là thiết yếu cho con người để phát triển những khả thể vô biên của mình, là cái giúp con người khỏi thiên lệch sang trời hay đất, tức làm nô lệ cho những cái ngoài mình như tiền tài, quyền quý. Đất biểu thị những gì bé nhỏ chỉ bằng những góc cạnh (bốn phương) như những nhu cầu ăn uống, đó là lối tác hành hiện ra hình thể có tính cách thúc bách, nó trói buộc con người vào vật thể, nếu không có những lúc dành riêng để tâm hồn thoát lên thì rồi sẽ bị trói chặt mãi vào đất để cho hạ tầng kinh tế chỉ huy trọn vẹn; kết cục là con người bị biến thành những dụng cụ sản xuất, những máy tự động vô hồn, không còn nghĩ tới được thượng tầng, đành trở nên những con người què quặt – vì đánh mất toàn vẹn tính của mình gồm không những hạ tầng như phải ăn, uống mà còn cả thượng tầng tâm linh, thượng tầng văn hóa.

12. Vì thế thượng tầng cũng phải tác hành, nhưng đi lối khác hạ tầng kinh tế vì nó là trời tròn đầy viên mãn có thiếu chi đâu mà phải lợi hành, nên có thể an hành tức là hành bằng tiết nhịp: làm không phải để được cái chi mà để triển diễn chiều kích vô biên của con người. Triết lý chơi nằm ở chỗ đó, ở chỗ hành không phải để được cái chi cả. Đúng hơn là không nhằm những cái nhỏ bé có thể trở thành mục tiêu, nhưng nhằm thỏa mãn chiều kích vô biên nơi con người, như để con người được tập dượt cho quen dần đặng vượt lên cõi bao la bên ngoài lợi lộc để phát triển sự toàn vẹn của mình.

13. Sự toàn vẹn bao gồm cả đức trời cả đức đất. Về phương diện đức đất con người phải lao động sản xuất, phải làm mà ăn. Tục ngữ quen nói: "tay có làm thì hàm mới nhai". Nhưng con người không chỉ có hàm mà còn nhiều cái khác, mà bao la hơn cả là tâm, là tình. Tình, tâm phải lớn bằng vũ trụ để trở nên vũ trụ chi tâm. Nói kiểu khác là đức của trời, và tới đây thì phải biết ăn chơi.

14. Chơi cũng gọi là ăn sao? Thưa rằng tại sao không. Nếu ăn là để nuôi dưỡng xác thân, thì chơi là để nuôi dưỡng cái chiều kích vô biên của con người nghĩa là những đức tính không thể đo lường bằng ích dụng, thí dụ những mối tình cao thượng về yêu thương, hòa bình, quảng đại, những khát mong hướng về chân, thiện, mỹ, toàn là những đức tính vô hình, nên thường bị coi như vô ích nhưng khi nhìn con người toàn diện lại thấy cần biết mấy. Vì thế mà trên đời chưa có cái hữu ích nào đắt bằng những cái "vô ích": một bức họa thời danh nhỏ có thể trả cả triệu dollars vẫn chưa mua được là vì thế, đúng ra vì nó vô giá. Vô giá vừa có nghĩa 'vô ích" vừa có nghĩa là có giá vô ngần. Đó là bằng chứng bất ngờ nói lên sự cao trọng của những cái "vô ích". Vì hữu ích là hạn cục vào một mục tiêu; cây viết có ích để viết thì không ích cho việc chỉ giờ. Đồng hồ có ích chỉ giờ thì vô ích cho sự xê dịch.. mỗi sự hữu ích là một hạn cục, không còn lối mở vào cõi vô biên cho nên cần thiết phải có chơi để khỏi biến con người thành một dụng cụ "có ích". Cần làm sao cho con người mãi mãi là một thực thể "vô ích" để có khả năng thông đạt với cõi vô biên đã vượt xa khỏi bình diện có ích với không có ích. Triết lý chơi nằm trong đó, chơi tuy vô ích mà lại rất phổ biến, ai cũng ham chơi, mà lý tưởng là phải chơi.

15. Tuy nhiên đặt ra được một triết lý chơi thật họa hiếm, nó đòi phải có hai điều; một là phải có triết lý chữ thời biết coi trọng tiết nhịp hai là phải có cảnh phong nhiêu phồn thịnh. Trước hết hãy nói về chữ thời mà cụ thể là tiết nhịp. Chơi mà thực đúng tiết thì phải được tổ chức vào những đầu tiết nhịp y như hát múa đều cần có nhịp nên ít ra phải theo được cung đầu và cuối của câu nhạc. Ở những cung giữa có sao nhãng hoặc bớt hay thêm một vài nốt nhạc cũng được, nhưng khi đến đầu nhịp thì mọi tay chơi phải hòa vào để đạt hòa âm. Vì thế mà thời xưa có niềm tin rằng ca vũ là phương tiện để thông giao với quỉ thần.

16. Đó chẳng qua là niềm tin của thời ma thuật, còn chính ra là để thông giao cùng tiết nhịp trời đất. Đó là ý nghĩa tết. Vì thế Việt Nho là miền có lệ ăn tết dài nhất, thì cũng có thể coi là đạo đức nhất, tiến xa nhất trên thang tiến hóa. Đó là điểm một. Điểm hai cũng cần lưu ý đó là có nhiều tết hơn cả bởi chưng tết là lễ, tức là lúc để dành thời giờ cho việc thích nghi với tiết nhịp = hai chữ nghi lễ là do đấy. Do quan niệm lưỡng thê: một tác hành sản xuất cho thân xác, một an nghỉ cho tâm hồn. Lưỡng nghi là phải thích nghi cả với dưới lẫn với trên mới là triết theo nghĩa đầy đủ. Trong khi lao tác có thể lạc nhịp nên cần phải có tết để cho hợp tiết. Vì thế hai tết to nhất nhằm vào hai mùa Xuân Thu tức hai mùa của con ngời (trục phân hàng ngang). Còn hai tết thuộc trục chí là hàn thực và lễ lửa thì coi là tùy thuộc theo quan niệm nhân chủ đặt nặng trục ngang (xem "Triết Lý Cái Đình") Thế là xong cái vụ tháng giêng ăn tết ở nhà. Còn tháng hai sao?

Chữ hai chỉ đất chỉ tiền tài, nên đưa đạo chơi vào cho đừng quá bám vào tiền tài là cái dễ chạy dễ thay chủ. Tuy nhiên vì cờ bạc dễ sa đọa nên xin đổi ra tập nhạc, hoặc học dịch hay tu luyện chi đó.

D. THÁNG BA HỘI HÈ.

17. Tháng ba ai cũng hiểu là tháng thứ ba sau tháng một và hai mà kỳ thực còn hàm ý vài ba, tức là nền minh triết thâm sâu chỉ con người đại ngã tâm linh gồm ba trời hai đất. "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", mà ngọn của tâm là tình. Tình mẹ là mối tình bao la nhất trong cõi người ta nên chỉ bằng nguyên lý mẹ, biểu thị bằng các Nghi Mẫu, câu tháng tám giỗ cha tháng ba giỗ mẹ nên được chở theo ý phổ biến này. Như vậy nói tháng ba hội hè là một cách buộc chơi vào với minh triết. Triết lý của chơi nhằm đáp ứng hai nhu yếu thâm sâu của con người; một là tiết nhịp như đã bàn trên.

18. Hai là thỏa thích mọi nhu yếu toàn vẹn là điều cần thiết cho sự triển nở con người mà sự phát triển các mối tình cao thượng là quan trọng nhất như đã nói trên. Đây là ý nghĩa cao cả, còn hiểu thấp xuống thì là nắp mở an toàn để con người có dịp xổ bớt ga ra do những điều không thể thỏa mãn, cũng như những uất ức, trái tai gai mắt, mà không một ai trong đời tránh hết được. Nếu không có dịp cho xổ ra thì những điều đó sẽ lắng xuống tiềm thức, rồi lên men gây nên những bệnh thần kinh. Các bệnh thần kinh đều phát xuất do những mảnh đời sống không được sống, như những uất ức không được nói ra, những yêu thương không được giải bày, những khát vọng không được đáp ứng.

19. Không may đó lại là điều xảy ra thường xuyên từ hạ tầng đến thượng tầng. Ở hạ tầng cần phải ăn mới sống, thế mà biết bao người không được no thỏa vì thực phẩm cho đến nay nói chung vẫn chưa bao giờ dư dật, nên xảy ra chuyện mạnh lấn yếu; do đó nhiều người bị tước đoạt cả đến miếng ăn. Nhất là khi kẻ mạnh nắm được quyền lực thì thường đặt ra những pháp luật khe khắt để bảo vệ tài sản cũng như quyền hành, do đó sinh ra rất nhiều hạn chế trói buộc không những bên ngoài mà còn nắm lấy bao tử để chen cả vào đời sống tư riêng, kiểm soát cả ý, cả tình, cả chí.

Thế là càng nhiều người bị tước đoạt hơn, khi đó nó không những gây nên các loại bệnh thần kinh gieo xao xuyến vào đời sống, mà còn biến thể thành những bệnh khổ dâm, khốn dâm, ưa thích phá hoại gây cho tha nhân khổ lụy, càng khốc thảm càng sướng vì đấy là những tên khốn dâm do bao đời bị đàn áp kết tinh lại, không được những cuộc hội hè đình đám xả bớt chất độc đi. Đó là lý do sâu xa tại sao minh triết lập ra những cuộc lễ lạy hội hè: một trong những mục tiêu thấp nhất là tháo khoán tức cho phép vượt thể lệ thường nhật cả trong việc ăn uống cũng như dục tính. Cho nên bản chất lễ là sự quá cỡ thường với mục tiêu mở nắp an toàn cho các uất ức buồn chán có dịp tiêu tán để bớt đi sức nén. Còn hiểu cao hơn thì hội hè chính là để con người được tham dự vào thời tính cũng gọi là đại thời đại không, tức như vượt mọi ranh giới của luật lệ, giai cấp để ai cũng được ăn uống, nói năng, múa nhảy thỏa thích hầu cho những mối tình khát mong sung túc, du dật, san sẻ bầu bạn có thêm nội dung cụ thể trung thực. Vì thế hội hè vẫn kéo theo đình đám.

20. Đình đám nói lên cảnh phong liêu dư dật. Đó lẽ ra phải là cảnh sống của con người. Không may con người chưa sao tạo được cảnh phong nhiêu thừa thãi đó, thì ít ra lâu lâu phải có những dịp khác thường nới rộng sự ràng buộc hàng ngày để mọi người cùng được tự do hơn. Đó là ý nghĩa của lễ lạy, hội hè, đình đám nó đã xuất hiện trên khắp hoàn cầu ở những thời xa xưa như lễ Saturnales được mừng vào cuối năm trong xã hội cổ La Mã. Trong những ngày ấy chủ đi giúp bàn, còn ngồi ăn lại là nô lệ. Hơn nữa một nô còn được chọn làm "vua" trong cả tuần lễ ; có quyền sai khiến chủ. Bên Hy Lạp có lễ Hellades, ở đảo Crete gọi là Kronos, Do Thái là Purim, Babylon là Sacees... Tất cả đều nhằm đáp ứng nhu yếu thâm sâu kia và thường được tổ chức vào cuối năm trong những ngày thừa không kể vào tháng nào, nên thuận lợi dùng làm những ngày "tháo khoán". Đấy là ý nghĩa thâm sâu của lễ lạy, hội hè, đình đám. Tuy nhiên càng về sau các lễ càng bị rút nhỏ lại hoặc sa đọa như thí dụ: nô lệ được làm vua xong hết tuần lễ thì bị giết.

E. TRIẾT LÝ HỘI HÈ.

21. Sở dĩ như vậy vì hội hè kéo theo một điều rất khó hiện thực đó là sự phong nhiêu hiểu cả về dưới lẫn trên.

Dưới là sự dư dật tràn trề của ăn cho mọi người. Trên là sự thỏa mãn cho mọi nhu yếu cả ý, tình, chí. Cả hai điều đó đều đòi phải có triết lý nhân sinh. Trước là để thiết lập và duy trì bình sản, để ai ai cũng có đủ tài sản.

Sau là nhìn nhận những thú vui, thỏa thích là điều tốt cho sự phát triển con người toàn diện, mà tình cảm cao thượng, vui sướng quảng đại, bao dung, hỉ xả .. là những mạch sống lớn nhất.

22. Hai điều đó đã không có trong những xã hội theo triết học cơ khí.

Mặt ngoài do sự tuyên dương quyền tư hữu đến độ tuyệt đối đã bóp chết cảnh phong nhiêu không bao giờ lan tỏa ra mọi người, cho nên dù xã hội giàu đến mấy thì tiền của cũng chui vào túi riêng một số rất nhỏ, hoặc vào tay chính quyền chuyên chế thì hầu hết dùng vào việc mở mang quyền lực, võ trang chinh phục. Còn đâu nữa cho đại chúng có được cảnh sung túc để mà hội hè. Mặt trong là thái độ thanh giáo khắc nghị không chấp nhận những vui thỏa bị gọi là của "xác thân" nên cho là xấu xa. Với thứ triết lý đó làm sao mà hội hè còn lý do tồn tại cho được.

23. Đến đây ta mới hiểu tậi sao miền đất Việt Nho đã duy trì được nhiều lễ hội hơn hết cũng như lâu dài hơn hết, là bởi đó là quê hương của bình sản, cũng như triết lý tâm tình được đề cao hết cỡ. Tình trời, tình đất, tình người đều được vun tưới bằng đủ loại Nghệ thuật.

Nếu có bao giờ thế giới để ý đến sẽ nhận ra rằng sau phần tư thế kỷ chiến tranh gieo rắc đầy đau thương thế mà cái tết dài nhất thế giới vào năm 1975 vẫn xuất hiện ở miền Nam Việt Nam, chứ không có ở đâu hết.

24. Thế giới càng lạ hơn nữa khi biết Tàu, Nhật cũng đã chính thức bãi bỏ tết từ lâu, thế mà tới tận năm 1975 nghĩa là vài tháng trước khi sụp đổ Nam Việt Nam vẫn còn ăn tết to nếu không cả tháng giêng thì cũng phải đến vài ba tuần sửa soạn và một tuần ăn tết. Có điều lần này phải đổi cung cách:
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng năm sang Mỹ
Tháng ba luận bàn

(bài này được kết vào tháng ba)

25. Nhiều người nói dân Việt Nam nặng tinh thần nhẹ vật chất. Đó là câu nói trúng, nếu cần đưa chứng tích thì tết chính là một bằng chứng cụ thể nhất.

Mỹ cũng phải chào thua cái tết của Việt Nam, nó uy linh đồ sộ lắm lắm. Vì thế tết còn là lý chứng hùng hồn cho tâm linh sử quan tức không phải chỉ có hạ tầng mới chỉ huy nổi thượng tầng. Vì nếu chỉ có thế thì Việt Nam đã phải bãi bỏ tết từ lâu lắm rồi. Bởi chưng là miền nghèo lại hay bị loạn lạc.

26. Thế tại sao ở đây lại còn giữ được tết lâu nhất, thì đó là đấu thượng tầng văn hóa chỉ huy hạ tầng, Và đã như vậy từ lâu lắm như thấy diễn tả trên mặt trống đồng. Trong ấy con người múa nhảy thanh thoát như chim.

Muôn vật cũng hòa nhịp trong bài ca vũ trụ. Nói vũ trụ vì gồm trời đại diên cho mặt trời, và đất biểu thị bằng những vòng vũ tả nhậm. Tất cả xuất hiện thanh thản an nhiên như chim. Chim đủ loại: Lạc, Hạc, Vụ, Hồng, Địch. Cái chi cũng chim. Chày giã gạo cũng được trang bị lông chim để nói lên một cảnh tiêu dao siêu thoát khiến người xem nào cũng muốn bay bổng lên cùng. Sao mà an nhiên tự tại như cảnh địa đường vậy chứ. Có phải tại Việt Nam giầu nhất chăng? Đâu có, nghèo hơn Mỹ ít nhất 50 lần.

Vậy mà tại sao Mỹ không có nổi được cái tết dài. Tại sao bên các xã hội giàu mạnh hơn, tết lại teo đi theo độ giàu thịnh.

27. Đây là câu hỏi rất đáng cho chúng ta suy nghĩ bởi vì hậu quả sẽ là tìm ra bí quyết sống thanh thoát như chim; làm ít ca hát nhiều, suốt đời bay nhảy. Còn ngược lại sẽ là sống như đoàn kiến lật quật cả ngày, khuân vác liên tục không có lấy một chút thì giờ ngửa mặt lên kiểu nông nghiệp của tổ tiên ta:

"Người ta đi cấy lấy công
Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông nước trông mây"...

Không chỉ biết có lợi hành bằng lấy công mà còn an hành biểu thị bằng trông trời mây nước Có vậy lòng mới mở ra man mác như vũ trụ. Có vậy mới đủ sức kiến tạo được một triết lý an hành với một nhịp làm rồi một nhịp chơi xen kẽ, và duy trì được như thể trải qua muôn thế hệ. Đâu là bí quyết của sự vụ? Đã biết điều kiện vật chất của tết nhất hội hè là sự dư dật thừa thãi. Tại sao Việt Nam không có thừa của mà còn giữ được tết nhất lâu dài như vậy? Câu thưa tiên thiên nằm trong thành ngữ 'vài ba" mà ý nghĩa là đặt tinh thần trên vật chất. Nếu ta mở sách năm châu kim cổ thì chẳng thiếu những câu nói như thế (tinh thần hơn vật chất) chứ chẳng riêng gì Việt Nam, nhưng có một điều lạ, là tuy lời nói thì có đặt tinh thần trên vật chất, nhưng trong cơ chế thì rõ rệt là để hạ tầng cơ sở chỉ huy thượng tầng. Cho nên lại phải tìm thêm nữa.

28. Lúc ấy ta sẽ thấy một sự khác biệt biểu lộ bằng chữ Trống: Tâm hồn có trống rỗng thì chiều kích vô biên mới được nuôi dưỡng. Đó là phương thức đáp ứng nhu yếu thâm sâu hơn hết của con người đó là sự đói khát vô biên. Phải nói ngay đây chính là nền tảng làm cho con người cao cả hơn con vật. Con vật chỉ ăn những vật hữu hạn. Con người không thế, ngoài của ăn hữu hạn còn cần của ăn vô hạn, chứng tỏ nó có một chiều kích vô biên cần được nuôi dưỡng. Chính chiều kích đó làm cho con người khác thú vật ở chỗ muốn vượt xa khỏi hữu hình, mà bao lâu chưa vượt được thì con người vẫn chưa mãn nguyện, vì thế cứ phải tìm thêm hoài, tích lũy mãi mãi. Đó là lý do gây nên sự đói vô biên, là cái sẽ đọa ra lòng tham vô đáy. Làm thế nào để thỏa mãn lòng tham vô đáy nọ. Như đã nói chỉ có con đường duy nhất là trống rỗng, là vô thanh vô xú ... Nhưng cho tới nay con người đều đi lối bít kín, đi lối chắc nịch: lối có, mà đã có thì đối tượng phải ở bên ngoài con người mất rồi và vì vậy không còn là vô biên, không thể làm no lòng khát cái vô biên của con người. Thế là đói bên trong, đói cái vô biên, mà lại tìm chất nuôi bên ngoài, chất nuôi hữu hạn, khác nhau chỗ đó. Chính vì vậy ... không bao giờ đạt được đức quả dục mà khẩu hiệu của nó là câu nói trong Đạo Đức kinh:

"Tri túc tiện thị túc
Tri nhàn tiện thị nhàn"

"Biết đủ tức có đủ
Biết nhàn tức có nhàn"

Có biết đủ mới bỏ thời giờ ra hưởng nhàn như ăn tết, hội hè. Có biết đủ những người giàu mới sẵn sàng bỏ tiền của ra tổ chức đình đám cho mọi người cùng hưởng. Đó là về tư nhân.

29. Về phía chính quyền có tri túc mới đủ can đảm hiện thực chế độ quân phân tài sản, để đáp ứng nhu yếu đầu tiên của mọi người là ăn. Tết nhất hội hè chỉ có chỗ đứng nơi nào con người có đủ ăn, dư ăn. Bí quyết của Việt Nam nằm chỗ đó: tài sản ít nhưng cố theo chính sách chia đều. Tuy trong thực tế còn rất xa lý tưởng, dù vậy đã có được nền tảng cho sự dư dật đồng đều tức cũng là có nền cho hội hè đình đám. Vậy nên sự có hội hè đình đám chứng tỏ triết lý Việt Nho đã đi đúng hướng tâm linh, nên làm no thỏa được "nhân dục vô nhai" rồi. Con đường ấy tóm vào "ba hồi trống thu không" bao giờ cũng được đánh lên để khai mạc mỗi cuộc hội hè đình đám.

30. Tóm lại, muốn có hội hè đình đám phải có quân phân, muốn có quân phân thì phải có triết lý an vi hướng dẫn. Con người không những có cưỡng hành, lợi hành, mà còn cần an hành. Muốn được như vậy phải biết cách lấp được lòng tham vô đáy. Nhưng cho tới nay người ta không lấp được: tư bản hay cộng sản cũng thế. Cả hai đi theo nguyên lý đồng nhất nên dùng A lấp A. Tham của thì dùng của mà lấp. Nhưng của có hạn mà lòng tham vô đáy lấp sao nổi. Thế là từ đấy mọi người trong nước đều phải làm hùng hục để tích lũy, không còn thì giờ để nghỉ ngơi, hay nếu có nghỉ thì chỉ là để lấy sức đặng lao động tốt nữa, làm sao có được những chiều kích siêu việt của tết nhất hội hè. Làm sao có được như thế với cái triết lý lao động hiện đại nặc mùi xú khí của lao ngục, lao tù, lao đao, lao khổ, lao phổi, lao tim!

Với bi trạng lao tác kiểu đó thì đời con người với kiếp trâu ngựa có còn khác chi đâu, thua hẳn loài chim, cả đời bay nhảy múa hát.

Ngược lại, nhờ có triết lý an vi đã xuất hiện với muôn tiếng chim hát đón chào mà tiên tổ Việt tộc đã có thể sống an nhiên thanh thoát như được ghi lại trên mặt trống đồng Ngọc Lữ ca vũ ngút ngàn



Nhận xét